Trước khi xây nhà cần tìm hiểu về phong thủy Thiết kế phong thủy cho ngôi nhà là một yêu cầu cần thiết nhưng nhiều người xây nhà xong mới nhờ đến điều này. Thực tế, không ít căn nhà vì vậy mà phạm điều cấm kỵ trong bài trí đồ đạc, sắp xếp cảnh quan. Để người trong nhà được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc, một số gia đình đã tốn kém thêm không ít chi phí để chỉnh sửa ngôi nhà.Lý do thiết kế phong thủy trước khi thiết kế chi tiết và xây dựng Phong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì địa khí sẽ quyết định được mảnh đất đó có tốt cho việc phát triển công danh tài lộc, sức khỏe hay không. Nếu mảnh đất đó mà có "xạ khí" tức là tử khí thì cần phải giải quyết khí đất trước khi xây dựng. Nếu gia chủ không kiểm tra địa khí và thiết kế phong thủy trước khi xây dựng thì khi làm nhà trên đó sẽ rất nguy hiểm và khó hóa giải. Thiết kế phong thủy trước khi xây dựng là để việc phân phòng, phân cổng, cửa, hướng nhà, hướng bếp, hướng ban thờ, phòng ngủ, đường nước vào và ra đúng với nguyên lý thủy pháp trường sinh và kỹ thuật phong thủy, nhằm đảm bảo ngôi nhà xây xong thì mọi người sống trên đó được khỏe mạnh, tinh thần luôn ở trạng thái tốt. Thiết kế phong thủy trước cũng là việc lựa chọn được các số đo đẹp cho cửa cổng, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ, ban thờ sao cho lấy được các số đẹp mang lại may mắn. Ngoài ra, bạn sẽ không phải phá gian nhà này để làm phòng bếp hay thay đổi thiết kế lại ngôi nhà trong quá trình sử dụng. Việc chuẩn bị trước còn tạo cho bạn tư tưởng yên tâm và thỏa mãi để công việc cũng như cuộc sống được tươi mới hơn.Một số trường phái trong thiết kế phong thủy trước khi xây nhà Phong thủy địa khí: đo khí đất,mạng lưới Curry& Hastmann, đo năng lượng của đất ”độ Bovis”…, từ đó sẽ biết mảnh đất đó là mảnh đất phát về kinh doanh, về quan trường, hay là mảnh đất bình thường, đất gây bệnh... Từ đó, bạn có phương pháp hóa giải nếu không may gặp đất xấu. Phong thủy bát trạch: dựa trên cung mệnh của mệnh chủ và hướng đất để tính toán xem hướng nhà có hợp không, không hợp thì hóa giải như thế nào, tính toán các hướng: giường ngủ, hướng bếp, hướng bàn thờ, hướng bàn học, bàn làm việc, hướng cửa, hướng cổng sao cho được các khí tốt. Phong thủy loan đầu: khảo sát, phân tích các con đường, ngôi nhà, dòng sông, ao hồ, ngọn núi, cao ốc chung quanh mảnh đất để xem tác hại hay tác dụng tốt đến ngôi nhà, từ đó đưa ra phương pháp hóa giải. Huyền không phi tinh: dựa vào năm xây dựng và nhập trạch, dựa vào số độ la bàn của sơn - hướng ngôi nhà để xác định các thế trận sao (khí của các vì sao trong chòm sao bắc đẩu) ảnh hưởng như thế nào, từ đó các phương án mở cửa chính, thành môn phụ, làm non bộ, làm tiểu cảnh nước, làm cửa cổng. An thần sát: đây là trường phái tính toán phải đạt đến độ tuyệt đối và khi đó sắp xếp phân phòng, mở cửa cổng, cửa chính để đạt được sự ứng nghiệm. Đây có thể coi là nghệ thuật và cũng là đỉnh cao trong phong thủy. Các trường phái trên không thể tách rời trong thiết kế phong thủy cũng như xem phong thủy cho cơ quan, doanh nghiệp, ngôi nhà. Chúng phải được kết hợp một cách hài hòa và chọn những yếu tố thích hợp nhất cho cuộc đất trước khi xây dựng. Trước khi xây nhà cần tìm hiểu về phong thủy Thiết kế phong thủy cho ngôi nhà là một yêu cầu cần thiết nhưng nhiều người xây nhà xong ... Đọc thêm »
Nhà ở có bao nhiêu phòng là thích hợp? Phong Thủy học truyền thống cho rằng số phòng trong một ngôi nhà có ảnh hưởng lớn đến sự may mắn và sức khỏe của người ở. Điều đáng chú ý là ở đây chỉ số phòng trong nhà, chứ không phải chỉ riêng về số phòng ngủ. Vì dựa vào sách cổ, chỉ cần là một không gian có bốn tường bao quanh và có cửa sẽ được gọi là “phòng”. Cho nên, phòng khách, nhà vệ sinh, nhà bếp, phòng ngủ, phòng sách, nhà kho, thậm chí phòng giặt đồ cũng được gọi là một gian phòng, có thể được xếp vào danh sách tổng số các phòng trong một ngôi nhà. Thật ra, sự phán đoán cát hung của số phòng trong nhà ở của Phong Thủy học đã được quan niệm kiến trúc hiện đại kiểm chứng, đạo lý cũng giống như nhau. Gia đình hiện đại thường là hai vợ chồng và một đứa con hợp thành một nhà ba người; vì thế, một nhà có 3-4 gian phòng sẽ không đủ dùng. Thế thì rốt cuộc một ngôi nhà có bao nhiêu phòng mới thích hợp? Sự bố trí các gian phòng nên bao gồm bốn không gian dưới đây: a) Không gian ngủ: bao gồm phòng ngủ của chủ, phòng trẻ em. Nếu có người già cùng chung sống cần phải chuẩn bị thêm một phòng ngủ cho họ, gọi là phòng người già. b) Không gian ăn uống: gồm phòng ăn và nhà bếp. c) Mỗi một gia đình nên có phòng vệ sinh tương ứng kèm theo. d) Không gian có công dụng khác: gồm phòng khách, phòng sinh hoạt chung, phòng sách, phòng cho khách ở, ban công, nhà kho, nhà xe… thậm chí nếu nhà ở to còn có thêm phòng tập thể dục, phòng nghe nhạc, phòng tập hát… Bốn loại không gian kể trên nếu diện tích nhà ở to, lý tưởng nhất đương nhiên là mỗi loại đều phân chia ra, nhưng trước mắt số người sống trong ngôi nhà có diện tích to như thế là có hạn. Dùng một ngôi nhà của người bình thường để nói, khi không gian có hạn, khi không có cách nào bố trí nhiều phòng, có thể xem xét các loại không gian và hợp chúng lại sử dụng chung. Như phòng ăn, phòng khách, phòng sinh hoạt chung có thể dùng chung, nhưng phòng ngủ của mỗi người phải riêng biệt. Vì thế, một ngôi nhà chỉ có ba hay bốn phòng khó thỏa mãn được các nhu cầu về cuộc sống, vui chơi, nghỉ ngơi của người hiện đại. Nếu số phòng trong một ngôi nhà vừa vặn rơi vào con số 3, 4, 8 tượng trưng cho “hung” – chỗ này không hiểu sao tác giả lại không giải thích rõ – không nên vì thế mà lo lắng quá, một là làm tăng hoặc giảm công dụng của một số phòng là điều không cố định, có thể thay đổi. Hai là có mấy phòng là thích hợp đều do điều kiện gia đình và tình trạng nhu cầu quyết định. Phòng ốc là “chủ hung hay chủ kỵ”, cũng có liên quan đến tâm lý và nhận biết của bạn, không vì thế mà căng thẳng lo lắng, chủ yếu là có phù hợp với nhà ở hay không. Từ nhu cầu thực tế của số lượng người cư ngụ mà tính toán số phòng cho phù hợp với đời sống sinh hoạt, sô người it lạị quá nhiều phòng là điều không nên. Nhà ở có bao nhiêu phòng là thích hợp? Phong Thủy học truyền thống cho rằng số phòng trong một ngôi nhà có ảnh hưởng lớn đến sự ma... Đọc thêm »
Phong thủy, chuyện người xưa chọn đất làm nhà Phong thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này. Hai khái niệm mà nhiều người hoà trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và các thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như thế phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy. Phong thủy còn có ý nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ, về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả. Nên vừa gần với con người lại vừa xa với con người, lý luận cơ bản của phong thủy (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dạng vẻ bí hiểm. Đọc phong thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống, chết đan xen, đất trời hoà nhập, rõ không ra rõ mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thấy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy có bộ mặt thần bí. Lý luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp. Để xem một thế đất đặt mả, phần lớn thầy địa lý phải ở gần gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghiá đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy đất phát lại ngẫm nghĩ, tính suy hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí còn hối vì đãi thầy chưa hậu. Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cậy thầy phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như nhờ thầy mà phát. Nhưng sang năm 1995 – 1996 nhà vay tiền làm, những mong Tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “house for rent” cả thời gian dài dài chẳng có ai ngó hỏi. Nợ vẫn chất chồng, lãi mẹ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng có ai đi trách thầy phong thủy. Thầy phong thủy nào chẳng nói như tép nhảy, lại đệm những từ như minh đườmg, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thầy và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thầy đạo cao đức trọng. Nước Trung Hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng Kông, Đài Loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình có lúc lu mờ, kín đáo. Vài năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung Quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thủy trên sách vở. Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì. Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hoá, vì nó sống trong phần hồn của con người. Trong phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn theo ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khoẻ tốt, tâm lý tốt, làm nên ăn ra. Đấy là những nhân tố tích cực. Làm cho phong thủy thần bí, võ đoán những thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại goá chồng ...là điều chưa hẳn dễ tin. Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hoá, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gạn đục khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được. Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương thức. Tri thức về phong thuỷ không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Tàu cổ. Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thuỷ dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị. Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm” có hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ. Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh đỉnh môn trâm” bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch. Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng trong đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng. Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thuỷ gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 150 Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về phía trái nửa ô. Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng là Thái dương,Thái âm,Thiếu dương,Thiếu âm. Đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần: Khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, còn bên tả là Thanh Long thì bên hữu là Bạch Hỗ. Điều này có nghĩa là, trước mặt là Nam thì sau lương là Bắc, bên trái là Đông thì bên phải là Tây. Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu, kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, ất, Thìn, Tốn,Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp. Chuyện lưu truyền khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm đã ứng nghiệm. Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông Thanh Long , đất màu xanh cây cỏ, phương tây Bạch Hổ màu đất trắng bạc, phương nam Chu Tước đất đỏ màu hồng, phương bắc Huyền Vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho người. Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái còn thêm bốn hướng của bát quái là: Càn, Khôn,Cấn,Tốn. Đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc. Như thế phương Đông có Giáp, Mão, ất, Đông Nam có Thìn,Tốn, Tỵ, Nam có Bính, Ngọ, Đinh, Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân, Tây có Canh, Dậu, Tân, Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi, Bắc có Nhâm, Tý, Quý, Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần. Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng đia chỉ). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can). Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn- Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài. Phân vị theo ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc Hành Thuỷ, Đông thuộc Hành Mộc, Nam thuộc Hành Hoả, Tây Hành Kinh. Còn cách gọi khác: Thuỷ là Nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường. Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì thuỷ giao thuỷ nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thuỷ. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thoả. Nếu dựng nhà quay măt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên. Phương Nam là Hoả mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa,theo phong thuỷ thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đới Tượng xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẻ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Môc Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý. Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, Địa, Nhân còn có quy ước:Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là Địa hộ, Bính là Địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là thiên Môn. Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên thiên Bát quái của Phục Hy để phối hợp Âm Dương. Hữu Thiên bát quái của Văn Vương để xếp các Hào Tượng. Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương thì gò đống nổi cao lại là Âm. Đât Sơn Cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy). Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để toạ lạc (khởi đột). Khu đất đẹp bên trái có thanh long (mạch nước). Bên phải có bạch hổ (dường dài), thế đất đằng trước có ao đầm toả rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng(huyền vũ). Long là Dương, Hổ là Âm. Long Hổ tương nhượng thì gia đinh hoà thuận, trai gái sum vầy. Núi chủ tĩnh (đứng yên) là Âm thì nước chảy (chủ động) là Dương. Thế đất đẹp là đất có chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lững lờ là lỡ rộng như chảy, như không, lưu luýên dùng dằng. Núi và nước hiền hoà bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Điều hoà Âm Dương là điều quan trọng. Luận Âm Dương rồi Toán ngũ Hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu. Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ nhũng điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng. Thuật phong thuỷ nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì dùng điều hoà nhiệt độ. Phong thuỷ ghi lại dấu của một hiện tượng văn hoá xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao.Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thuỷ cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống vói môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại bỏ những điều mê tín là sự lợi dụng phong thuỷ loè bịp thiên hạ để kiếm cơm thì phong thuỷ đâu có chỉ là dị đoan. Phương vị theo ngủ hành thì chinh giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hànhThuỷ, Đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hoả, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thuỷ là nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc la Khúc trực, Kim la Tòng cách, Thổ la Gia tường. Đó là Chính- Ngũ- Hành. Như hình này thì Thổ không ở các phương mà nằm ngay chính giữa. Thuật phong thuỷ chú ý đến toạ sơn, hướng thượng, thực tế ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành cho nên còn có tên của ngũ hành là tứ kinh ngũ hành. Dần, Ngọ, Tuất hợp thành nhóm Hoả. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành nhóm Kim. Thân,Tý, Thìn hợp thành nhóm Thuỷ. Tân, Mão, Mùi hợp thành nhóm Mộc. Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là tam hợp ngũ hành. Bát quái ngũ hành phân biệt khác với chính ngũ hành và các loại ngũ hành khác. Bát quái ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận ngũ hành. Bát quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn. Theo đồ tiên thiên bát quái thì Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây, Đoài ở Đông Nam, Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam và Cấn ở Tây Bắc. Đến hậu thiên Bát quái thị địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi. Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hợp nên. Càn là Dương thuần, hút khí âm của Khôn biến thành Tốn. Càn biến hoá lần hai thành Ly, biến hoá lần ba thành Đoài. Khôn là Âm thuần đoạt dương khí của Càn biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn. Luận vào ngũ hành thì Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi Mùi phối hợp với Chấn do đó Canh, Hợi, Mùi đều thuộc Mộc. Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn do đó Tân cũng thuộc Mộc. Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn nên Giáp cũng thuộc Kim. Đoài thuộc Kim. Đinh ghép với Đoài, Tỵ, Sửu phối hợp với Đoài nên Đinh Tỵ, Sửu đều thuộc Kim. Khảm thuộc Thuỷ, Khảm phối hợp với Quý, Quý thuộc Thủy, Thân, Thìn phối hợp với Khảm nên cũng thuộc Thuỷ. Ly thuộc Hoả. Càn phối hợp với Nhâm thuộc Hoả Dần, Tuất hợp với Ly nên cũng thuộc Hoả. Khôn thuộc Thổ. ất ghép với Khôn nên cũng thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn nên Bính cũng thuộc Thổ. Tượng trưng của bát quái thì Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió. Bát quái chủ yếu dùng minh định phương vị. Chu Dịch chỉ rõ: Vạn vật ra đời từ Chấn, Chấn là phương Đông, bình tại Tốn, Tốn là Đông Nam, Ly là sáng sủa, vạn vật gặp nhau nên Ly là phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam để xét việc thiên hạ. Khôn là Đất nuôi vạn vật. Đoài là giữa mùa Thu, là sở thuyết của vạn vật. Càn chỉ phương Tây Bắc, nơi âm dương sát kề nhau. Khảm là nước, là phương chính Bắc, là nơi quy tụ của vạn vật. Cấn chỉ Đông Bắc, là nơi kết thúc cũng là nơi mở đấu của mọi việc. Hồng phạm ngũ hành phân biệt khác trên như sau: Giáp Dần Thìn Tốn Mởu Khảm Tân Thân thuộc Thuỷ Chấn Cấn Tỵ thuộc Mộc Ly Nhâm Bính ất thuộc Hỏa Đoài Đinh Càn Hoại thuộc Kim Sửu Quý Khôn Canh Mùi thuộc Thổ Trên đây là loại ngũ hành thông dụng. Ngoài ra còn nhiều loại ngũ hành khác như Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp Âm ngũ hành, Địa chi ngũ hành….nhiều vô kể. Cụ thể của phong thuỷ thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hoả, thế vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thuỷ. Khi chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc là điều thầy phong thuỷ tâm niệm hàng ngày. Tuy thế sự vận dụng ngũ hành trong phong thuỷ rất lung tung. Thầy phong thuỷ cho rằng ngũ hành là cương lĩnh của Âm Dương, là quyền của tạo hoá cho nên mọi việc trong nghề phong thuỷ đều phải dựa vào ngũ hành. Mọi phương án lập thành đều do lý luận dựa vào ngũ hành mà phán đoán. Hiện nay ta có thể coi rằng nhiều luận đoán là võ đoán. Tuy thế, có một số luận đoán là khả tín. Luận đoán kiểu ngũ hành tương ngộ, đại loại xem sự sinh – khắc ra sao, xem khi phối hợp sẽ dẫn đến kết quả thế nào. Xin dẫn ra đây để minh chứng những điều luận đoán của thầy phong thuỷ, để chúng ta thấy một luận lý , không phải đây là một cáh luận lý chung nhất và điều đúng sai còn phải bàn. Khi thuỷ gặp thuỷ thường dẫn đến điều không tốt, gia đình dâm loạn. Phương Bắc là thuỷ mà có nước ngấm vào nhà, vào mồ thì không tốt. Phương Nam là hoả mà có thế đất hình tam giác nhọn, như thế hoả gặp hoả thầy phong thuỷ đoán rằng ở nơi đất ấy thường sinh kiện tụng. Phương Tây thuộc Kim mà có thế đất dáng tròn (kim hình) thì nhà như thế của cải ùn ùn kéo đến. Phương Đông thuộc Mộc mà thế đất lại có hình dài (Mộc hình) gia chủ sẽ có con cái đuề huề, giàu sang phú quý. Đối với mảnh đất làm nhà hay nơi huyệt táng, nếu lấy vị trí ngôi nhà hay ngôi mộ làm mốc phương vị thì phong thuỷ gọi bên trái là Thanh long, bên phải là Bạch hổ, đằng trước là chu tước, miếng đất ngay sát nhà là Minh đường, đằng sau là Huyền vũ. Tốt nhất thì bên trái có dòng nước nhỏ chảy lững lờ cho đúng nghĩa Thanh long(con rồng xanh). Bên trái có nước chảy theo dòng, cha và con trai vinh hiển mát mặt với đời. Bên phải có Bạch hổ (hổ trắng) lại có đường dài men theo rìa đất thì con gái trong nhà đảm đang sung sướng. Bạch Hổ mà lại có đình chùa miếu mạo hoặc vũng úng ngập là điều kiêng kị. Đất ở như thế dễ sinh tử biệt trong nhà. Trước nhà có ao hồ ôm đảo nhỏ hình tròn thì con gái trong nhà vẻ vang phú quý. Chu tước có sông dài bao bọc làm thành án thư như hình cái bàn kê trước nhà, trước mộ thì con cái trong nhà gaìu sang hiển vinh. Thế đất này gọi là Thiên cát (có lầu gác nhà trời). Sau nhà thế đất đùn tròn như mây đùn,xúm xít sum vầy gọi là huyền vũ có thế bích dài (đài biếc), lộc không được để hố sâu. Truyền thuyết kể rằng sau mộ Tổ Khuất Nguyên bên Tàu có hố sâu nên ông này chết uổng. Núi non, sông nước, thiên nhiên, gò đống long mách sắp xếp trên mặt đất đã tạo cho hoạ phúc cho người lưu tới. Thầy phong thuỷ cho rằng mình có nhiệm vụ tìm ra chỗ ở, chỗ táng cho người ở, con cháu người táng được điều lành, được phúc ấm. Muốn có thế đất như ý phải học qua lý khí và thấu tìm. Điều hết sức quan trọng trong phong thuỷ bản thân người thầy phải tu nhân tích đức. Tiên tích đức, hậu tầm long: Cái gốc của tìm đất là thầy phải ăn ở, suy nghĩ cho có nhân bản, có đạo lý làm người. Đã gọi là tích đức thì không phải ngày một ngày hai mà có ngay đựoc. Chỉ hăm hở tìm đất thì sẽ bị trời che mất mắt, lòng dạ tối tăm, đất đẹp trước mắt mà như mù, không thấy được. Đức sáng thì có khi thế đất hay, chẳng cần luận lý cầu kỳ mà tâm đức với thiên nhiên đã đồng cảm, lòng thấy ngất ngây tận hưởng mà khi đã tích đức tu nhân tạm cho là đủ thì chẳng cần đất đẹp xấu làm gì. Những người đã đạt đạo lý ấy, tự thân nhận thức cái có với cái không hầu như nhào quyện. Đến đây, câu chuyện phong Phong thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này. Hai khái niệm mà nhiều người hoà trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và các thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như thế phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy. Phong thủy còn có ý nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ, về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả. Nên vừa gần với con người lại vừa xa với con người, lý luận cơ bản của phong thủy (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dạng vẻ bí hiểm. Đọc phong thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống, chết đan xen, đất trời hoà nhập, rõ không ra rõ mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thấy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy có bộ mặt thần bí. Lý luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp. Để xem một thế đất đặt mả, phần lớn thầy địa lý phải ở gần gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghiá đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy đất phát lại ngẫm nghĩ, tính suy hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí còn hối vì đãi thầy chưa hậu. Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cậy thầy phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như nhờ thầy mà phát. Nhưng sang năm 1995 – 1996 nhà vay tiền làm, những mong Tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “house for rent” cả thời gian dài dài chẳng có ai ngó hỏi. Nợ vẫn chất chồng, lãi mẹ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng có ai đi trách thầy phong thủy. Thầy phong thủy nào chẳng nói như tép nhảy, lại đệm những từ như minh đườmg, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thầy và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thầy đạo cao đức trọng. Nước Trung Hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng Kông, Đài Loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình có lúc lu mờ, kín đáo. Vài năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung Quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thủy trên sách vở. Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì. Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hoá, vì nó sống trong phần hồn của con người. Trong phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn theo ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khoẻ tốt, tâm lý tốt, làm nên ăn ra. Đấy là những nhân tố tích cực. Làm cho phong thủy thần bí, võ đoán những thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại goá chồng ...là điều chưa hẳn dễ tin. Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hoá, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gạn đục khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được. Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương thức. Tri thức về phong thuỷ không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Tàu cổ. Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thuỷ dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị. Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm” có hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ. Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh đỉnh môn trâm” bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch. Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng trong đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng. Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thuỷ gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 150 Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về phía trái nửa ô. Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng là Thái dương,Thái âm,Thiếu dương,Thiếu âm. Đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần: Khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, còn bên tả là Thanh Long thì bên hữu là Bạch Hỗ. Điều này có nghĩa là, trước mặt là Nam thì sau lương là Bắc, bên trái là Đông thì bên phải là Tây. Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu, kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, ất, Thìn, Tốn,Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp. Chuyện lưu truyền khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm đã ứng nghiệm. Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông Thanh Long , đất màu xanh cây cỏ, phương tây Bạch Hổ màu đất trắng bạc, phương nam Chu Tước đất đỏ màu hồng, phương bắc Huyền Vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho người. Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái còn thêm bốn hướng của bát quái là: Càn, Khôn,Cấn,Tốn. Đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc. Như thế phương Đông có Giáp, Mão, ất, Đông Nam có Thìn,Tốn, Tỵ, Nam có Bính, Ngọ, Đinh, Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân, Tây có Canh, Dậu, Tân, Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi, Bắc có Nhâm, Tý, Quý, Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần. Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng đia chỉ). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can). Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn- Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài. Phân vị theo ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc Hành Thuỷ, Đông thuộc Hành Mộc, Nam thuộc Hành Hoả, Tây Hành Kinh. Còn cách gọi khác: Thuỷ là Nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường. Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì thuỷ giao thuỷ nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thuỷ. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thoả. Nếu dựng nhà quay măt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên. Phương Nam là Hoả mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa,theo phong thuỷ thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đới Tượng xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẻ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Môc Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý. Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, Địa, Nhân còn có quy ước:Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là Địa hộ, Bính là Địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là thiên Môn. Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên thiên Bát quái của Phục Hy để phối hợp Âm Dương. Hữu Thiên bát quái của Văn Vương để xếp các Hào Tượng. Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương thì gò đống nổi cao lại là Âm. Đât Sơn Cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy). Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để toạ lạc (khởi đột). Khu đất đẹp bên trái có thanh long (mạch nước). Bên phải có bạch hổ (dường dài), thế đất đằng trước có ao đầm toả rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng(huyền vũ). Long là Dương, Hổ là Âm. Long Hổ tương nhượng thì gia đinh hoà thuận, trai gái sum vầy. Núi chủ tĩnh (đứng yên) là Âm thì nước chảy (chủ động) là Dương. Thế đất đẹp là đất có chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lững lờ là lỡ rộng như chảy, như không, lưu luýên dùng dằng. Núi và nước hiền hoà bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Điều hoà Âm Dương là điều quan trọng. Luận Âm Dương rồi Toán ngũ Hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu. Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ nhũng điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng. Thuật phong thuỷ nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì dùng điều hoà nhiệt độ. Phong thuỷ ghi lại dấu của một hiện tượng văn hoá xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao.Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thuỷ cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống vói môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại bỏ những điều mê tín là sự lợi dụng phong thuỷ loè bịp thiên hạ để kiếm cơm thì phong thuỷ đâu có chỉ là dị đoan. Phương vị theo ngủ hành thì chinh giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hànhThuỷ, Đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hoả, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thuỷ là nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc la Khúc trực, Kim la Tòng cách, Thổ la Gia tường. Đó là Chính- Ngũ- Hành. Như hình này thì Thổ không ở các phương mà nằm ngay chính giữa. Thuật phong thuỷ chú ý đến toạ sơn, hướng thượng, thực tế ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành cho nên còn có tên của ngũ hành là tứ kinh ngũ hành. Dần, Ngọ, Tuất hợp thành nhóm Hoả. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành nhóm Kim. Thân,Tý, Thìn hợp thành nhóm Thuỷ. Tân, Mão, Mùi hợp thành nhóm Mộc. Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là tam hợp ngũ hành. Bát quái ngũ hành phân biệt khác với chính ngũ hành và các loại ngũ hành khác. Bát quái ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận ngũ hành. Bát quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn. Theo đồ tiên thiên bát quái thì Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây, Đoài ở Đông Nam, Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam và Cấn ở Tây Bắc. Đến hậu thiên Bát quái thị địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi. Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hợp nên. Càn là Dương thuần, hút khí âm của Khôn biến thành Tốn. Càn biến hoá lần hai thành Ly, biến hoá lần ba thành Đoài. Khôn là Âm thuần đoạt dương khí của Càn biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn. Luận vào ngũ hành thì Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi Mùi phối hợp với Chấn do đó Canh, Hợi, Mùi đều thuộc Mộc. Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn do đó Tân cũng thuộc Mộc. Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn nên Giáp cũng thuộc Kim. Đoài thuộc Kim. Đinh ghép với Đoài, Tỵ, Sửu phối hợp với Đoài nên Đinh Tỵ, Sửu đều thuộc Kim. Khảm thuộc Thuỷ, Khảm phối hợp với Quý, Quý thuộc Thủy, Thân, Thìn phối hợp với Khảm nên cũng thuộc Thuỷ. Ly thuộc Hoả. Càn phối hợp với Nhâm thuộc Hoả Dần, Tuất hợp với Ly nên cũng thuộc Hoả. Khôn thuộc Thổ. ất ghép với Khôn nên cũng thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn nên Bính cũng thuộc Thổ. Tượng trưng của bát quái thì Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió. Phong thủy, chuyện người xưa chọn đất làm nhà Phong thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên ... Đọc thêm »
Xem tuổi làm nhàXem ngày làm nhà - Cửu trạch – Kim lâu – Hoang ốc – Tam tai - Mượn tuổi - Động thổ - Thượng lương - Lễ động thổ Thông thường công trình nào khởi công được chọn lựa ngày giờ, tuổi tác và xem xét cẩn thận tâm linh, phong thuỷ thì được bền vững với thời gian, chủ nhà được vinh hoa phú quý, Ngũ đại đồng đường. Ngược lại những công trình không chuẩn bị chu đáo những việc trên thường bị thiên tai, địch hoạ, nhanh chóng bị hỏng, không có người ở, chủ nhân gặp bất hạnh rủi ro, kinh doanh không hiệu quả v.v.Do đó khi các bạn muốn khởi công nhà ở, biệt thự, khách sạn, văn phòng, ngân hàng, chung cư, khu resort v.v. nên theo thứ tự những lựa chọn sau thì sẽ được vạn sự như ý.1- Chọn cửu trạch: Gồm có 9 Trạch :-Trạch Phúc, cát-Trạch Đức, cát-Trạch Bại, hung-Trạch Hư, hung-Trạch Khốc, hung-Trạch Quỷ, hung-Trạch Tử, hung-Trạch Bảo, cát-Trạch Lộc, cátCách tính Cửu trạch như sau: 10 tuổi Trạch Phúc, 11 tuổi Trạch Đức, 12 tuổi Trạch bại, 13 tuổi Trạch Hư, 14 tuổi Trạch Khốc, 15 tuổi Trạch Quỷ, 16 tuổi Trạch Tử, 17 tuổi Trạch Bảo an, 18 tuổi Trạch Lộc cứ như thế tính đi.2- Tránh Kim lâu:-Kim lâu Gia trưởng, hung-Kim lâu Thê tài, hung-Kim lâu Tử tôn, hung-Kim lâu Lục súc, hungCách tính Kim lâu:Kim lâu bàng ách khởi Khôn cungThường liên đáo ngũ nhập trung cungKhảm – Ly - Chấn – Đoài vi thượng cátCàn – Khôn - Cấn - Tốn thị vi hung.3- Tránh hoang ốc:-Nhất Cát, cát-Nhị Nghi, cát-Tam địa sát, hung-Tứ Tấn tài, cát-Ngũ Thụ Tử, hung-Lục Hoang ốc, hungCách tính hoang ốc:13 tuổi Nhất cát, 14 tuổi Nhị nghi, 15 tuổi Tam địa sát, 16 tuổi Tứ Tấn tài, 17 tuổi Ngũ Thụ tử, 18 tuổi Lục hoang ốc cứ thế mà tính tiếp.4- Tránh Tam tai:-Tam tai đầu tổn tài-Tam tai giữa tổn lục súc-Tam tai cuối tổn nhân khẩuCách tính Tam tai:-Tuổi Thân, Tí, Thìn vào năm Dần, Mão, Thìn-Tuổi Tị, Dậu, Sửu vào năm Hợi, Tí, Sửu-Tuổi Hợi, Mão, Mùi vào năm Tị, Ngọ, Mùi-Tuổi Dần, Ngọ, Tuất vào năm Thân, Dậu, Tuất5-Tránh chủ nhân: đang vận khăn xám, Vợ đang mang thai thì không được động thổ, cất nóc, đổ bê tông mái nhà, dọn phòng, khai trương.6- Liên quan sao chiếu mệnh: Khi chủ nhà gặp hạn sao xấu vẫn có thể động thổ trạch nếu xem những yêu cầu trên đều được, nhưng phải chú ý:Hạn sao Thái bạch nên làm sau tháng 5 âm lịchHạn sao La hầu nên làm sau tháng 7 âm lịchHạn sao Thái âm nên làm sau thánh 8 âm lịchHạn sao Kế đô nên làm sau tháng 9 âm lịchHạn sao Thuỷ diệu nên làm sau tháng 10 âm lịch7- Mượn tuổi: Khi làm nhà thì phải chính chủ mới tốt, nếu không được tuổi mà phải mượn tuổi là bất đắc dĩ. Những trạch xấu ít thì còn có tác dụng, nếu gặp trạch quá xấu thì chỉ giải được 1 phần thôi. Nhiều người mượn tuổi làm nhà, làm xong nhà lễ xin chuộc lại ngay là không có tác dụng. Đã không được tuổi làm nhà thì làm sao được tuổi mà chuộc nhà ( như mua nhà)? Nếu trong hoàn cảnh bắt buộc phải làm thì phải tìm Thầy giỏi có kinh nghiệm để hạn chế rủi ro.8- Động thổ: Gọi là phép điểm Long Dùng Cuốc là tốt nhất, đứng theo hướng quy định rồi cuốc vào trong nhà mỗi nơi 5 nhát theo thứ tự: Gồm 4 tứ duy + 4 tứ chính + trung cungTổng cộng là 45 nhát.Phép điểm Long: phải dựa vào thời điểm khởi công mới tầm được Huyệt đạo của Long. Ví dụ : Tháng giêng thì lục Càn Long Phúc,tứ Tốn Long Bối, nhị Khôn Long Đầu, bát Cấn Long Túc, tam Chấn Long Nhĩ, thất Đoài Long Tỷ, cửu Ly Long Mục, nhất Khảm Long Vĩ, ngũ Trung cung Long Tề ..cứ thế suy ra.9-Thượng lương - Cất nóc - Đổ bê tông mái nhà - dọn nhà mới – lễ tân gia - trấn trạch - bồi hoàn long mạch v.v. đều xem như trên. Tuỳ thời gian làm để biết khi thượng lương hay đổ bê tông mái nhà, chủ nhà sẽ đứng vị trí nào? quay mặt về đâu? đổ bao nhiêu xô bê tông? hoặc cất nóc nhà ra sao?10- Chuẩn bị khoa lễ:- Hương hoa, ngũ quả, chè hoa cau, oản, trầu cau, trà, thuốc, bánh kẹo.- Xôi gà, thịt luộc, 5 quả trứng gà sống gói giấy trang kim 5 màu, 2 quả trứng vịt sống gói giấy trang kim màu trắng và xanh, 3 chai rượu con.-Tiền vàng các loại.- Năm Ngựa 5 màu, đủ roi cờ kiếm hài mũ quần áo.- Mũ, áo, hài quan Thổ công.- Ngựa, Voi, Rắn, Rùa đều màu vàng.-Tiền tào quan 5 lễ.- Vàng hoa 5 màu 5 hộp.- 1 cốc nước ngũ vị hương.- 12 con chim, 1 mớ cá trạch, 1 rổ ốc con, Cua, Ếch v.v.- 100 bộ quần áo chúng sinh, cháo, nẻ, muối, gạo, khoai, sắn, bỏng, bánh đa .v.v. 1 bát nước to.- 10 ngọn nến 5 màu .- Quần ,áo, hài, mũ, nón, giày, dép, cho Ông Bà tiền Chủ, Bà chúa Đất, Thần Tài.v.v.11- Sớ Thổ công:Chí thành khả cách nam danh cảm ứng chi huyền cơ khắc kính dĩ thân liêu ngụ tinh thần chi tố khổn phàm tâm khẩn đảo tuệ nhãn chứng minh viên hữuViệt Nam quốc ................Thượng phụngPhật thánh hiến cúng........ Thiên tiến lễ động thổ trạch (tân gia, trấn trạch)v.vGiải hạn tống ách trừ tai khất cầu gia nội bình an lộc tài vượng tiến diên thọ sự kim thần tín chủ...........Thiết khủng phương ngung cấm kỵ hoặc do phạm cửu dĩ nan thông cư xử hành tàng mạc thức cát hung chi sám tạ tư phùng lệ.........Tiết bái đảo cầu an giải nhất thiên tai ương nhạ hà sa cát khánh do thị kim nguyệt cát nhậtTu thiết nhang hoa kim ngân đầu thành ngũ thể tịnh tín nhất tâm cụ hữu sớ văn chí tâmThượng tấuCung duyBản xứ thổ công địa chủ ngũ phương vạn phúc phu nhânVị tiềnBản xứ thổ công địa chủ ngũ phương vạn phúc phu nhânVị tiềnBản gia đông trù tư mệnh tảo phủ thần quânVị tiềnBản xứ thổ địa phúc đức chính thầnVị tiềnNgũ phương long mạch tiền chủ tiếp dẫn tài thầnVị tiền cúng vọngTôn thầnĐổng thuỳChiếu giámPhục nguyệnThần vị trấn phương ngung quyền chi chiêu tịch linh thông hữu hách át phục thi cố khí nhi khẳng sử bằng lăng chính trực vô tư ngoại đạo yêu tà quỷ bất dung tiệp đột hoàng thi âm lực tĩnh chấn dương môn sở cư chi nam bắc tây đông vô ngu thử thiết khuyết xư chiBạch điêu nam nữ hàm toại tiến an đản thần hạ tình vô nhậm khích thiết bỉnh dinh chi chí cẩn sớ.Thiên vận: niên .... nguyệt......(ngày, tháng,năm). Xem tuổi làm nhà Xem ngày làm nhà - Cửu trạch – Kim lâu – Hoang ốc – Tam tai - Mượn tuổi - Động thổ - Thượng lương - Lễ động thổ Thông thườ... Đọc thêm »
Tìm hiểu phong thủy trước khi xây nhàĐể người trong nhà được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc, một số gia đình đã tốn kém thêm không ít chi phí để chỉnh sửa ngôi nhà.Lý do thiết kế phong thủy trước khi thiết kế chi tiết và xây dựngPhong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì địa khí sẽ quyết định được mảnh đất đó có tốt cho việc phát triển công danh tài lộc, sức khỏe hay không. Nếu mảnh đất đó mà có "xạ khí" tức là tử khí thì cần phải hóa giải khí đất trước khi xây dựng. Nếu gia chủ không kiểm tra địa khí và thiết kế phong thủy trước khi xây dựng thì khi làm nhà trên đó sẽ rất nguy hiểm và khó hóa giải.Thiết kế phong thủy trước khi xây dựng là để việc phân phòng, phân cổng, cửa, hướng nhà, hướng bếp, hướng ban thờ, phòng ngủ, đường nước vào và ra đúng với nguyên lý và kỹ thuật phong thủy, nhằm đảm bảo ngôi nhà xây xong thì mọi người sống trên đó được khỏe mạnh, tinh thần luôn ở trạng thái tốt.Thiết kế phong thủy trước cũng là việc lựa chọn được các số đo đẹp cho cửa cổng, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ, ban thờ sao cho lấy được các số đẹp mang lại may mắn. Ngoài ra, bạn sẽ không phải phá gian nhà này để làm phòng bếp hay thay đổi thiết kế lại ngôi nhà trong quá trình sử dụng. Việc chuẩn bị trước còn tạo cho bạn tư tưởng yên tâm và thỏa mãi để công việc cũng như cuộc sống được tươi mới hơn.Một số trường phái trong thiết kế phong thủy trước khi xây nhàPhong thủy địa khí: đo khí đất, đo năng lượng của đất, từ đó sẽ biết mảnh đất đó là mảnh đất phát về kinh doanh, về quan trường, hay là mảnh đất bình thường, đất gây bệnh... Từ đó, bạn có phương pháp hóa giải nếu không may gặp đất xấu.Phong thủy bát trạch: dựa trên cung mệnh của mệnh chủ và hướng đất để tính toán xem hướng nhà có hợp không, không hợp thì hóa giải như thế nào, tính toán các hướng: giường ngủ, hướng bếp, hướng bàn thờ, hướng bàn học, bàn làm việc, hướng cửa, hướng cổng sao cho được các khí tốt.Phong thủy loan đầu: khảo sát, phân tích các con đường, ngôi nhà, dòng sông, ao hồ, ngọn núi, cao ốc chung quanh mảnh đất để xem tác hại hay tác dụng tốt đến ngôi nhà, từ đó đưa ra phương pháp hóa giải.Huyền không phi tinh: dựa vào năm xây dựng và nhập trạch, dựa vào số độ la bàn của sơn - hướng ngôi nhà để xác định các thế trận sao (khí của các vì sao trong chòm sao bắc đẩu) ảnh hưởng như thế nào, từ đó các phương án mở cửa chính, cửa phụ, làm non bộ, làm tiểu cảnh nước, làm cửa cổng.An thần sát: đây là trường phái tính toán phải đạt đến độ tuyệt đối và khi đó sắp xếp phân phòng, mở cửa cổng, cửa chính để đạt được sự ứng nghiệm. Đây có thể coi là nghệ thuật và cũng là đỉnh cao trong phong thủy.Các trường phái trên không thể tách rời trong thiết kế phong thủy cũng như xem phong thủy cho cơ quan, doanh nghiệp, ngôi nhà. Chúng phải được kết hợp một cách hài hòa và có chung các yếu tố tốt.( Tìm hiểu phong thủy trước khi xây nhà Để người trong nhà được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc, một số gia... Đọc thêm »
Xây nhà theo mệnh gia chủNếu biết cách thiết kế nhà theo phong thủy, bạn có thể điều chỉnh không gian sống để tận hưởng cảm giác thanh bình, thoải mái và đón nhận vận may trong năm mới. Nguyên tắc chung là hướng đến các mối quan hệ tương sinh và tuyệt đối tránh tương khắc. Phong thủy Việt cũng xác định con người sống trong mối quan hệ đại vũ trụ - tiểu vũ trụ tương hòa, cho nên màu sắc, kích cỡ của đồ nội thất cần hài hòa với tổng thể ngôi nhà.Mệnh HỏaTuy màu đỏ tượng trưng cho Hỏa nhưng sẽ thật sai lầm nếu bạn lạm dụng màu nóng này từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài ngôi nhà. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng màu có tông nhạt hơn như màu hồng, hồng tím… khi chọn đồ nội thất, rèm cửa. Gia chủ mệnh Hỏa phù hợp với cổng có nhiều nét nhọn, vát chéo và sơn màu đỏ, cam hay cổng có mái ngói nhọn.Mệnh MộcMàu xanh lá cây tượng trưng cho mệnh Mộc. Ngoài ra, những món đồ nội thất màu xanh lá cây giúp bạn cân bằng trạng thái tinh thần. Nhiều người cho rằng màu xanh lá cây giúp gia chủ có ý thức rèn luyện sức khỏe. Gia chủ mệnh Mộc nên chọn cổng nhà làm bằng gỗ hoặc sắt có họa tiết hoa lá, sơn màu xanh lá cây.Mệnh ThổMàu vàng tượng trưng cho Thổ. Đây cũng là lựa chọn tuyệt vời cho phòng của trẻ nhỏ cũng như không gian sinh hoạt chung của cả gia đình. Tuy vậy, gia chủ cần lưu ý những màu kỵ với cung mệnh của mình: xanh lá cây, nâu thuộc mệnh Mộc có yếu tố khắc mệnh Thổ. Vật liệu trang trí phù hợp là thạch cao, đất nung, đồ gốm, gạch, đá vôi, đồ sành sứ, bình đất. Cổng nhà cho gia chủ thuộc mệnh Thổ nên có thiết kế vuông vức, kết hợp với tường rào xây gạch đá có gam màu vàng hoặc màu đất. Hướng nhà lý tưởng là Đông Bắc và Tây Nam.Mệnh KimNếu thuộc mệnh Kim, gia chủ nên chọn trang trí nhà với màu trắng tượng trưng cho mệnh Kim hoặc sử dụng màu vàng nhạt, xám và tránh màu đỏ, hồng vì Thổ sinh Kim, còn Hỏa khắc Kim. Để cuộc sống yên ấm, làm ăn thuận lợi, cổng nhà của người mệnh này nên có hình dáng cong tròn và màu xám.Mệnh ThủyBài trí nhà cho người mệnh Thủy dễ hơn mệnh Mộc, Hỏa, vì Thủy mang nhiều yếu tố tốt đẹp về sức khỏe, may mắn và tài lộc. Tuy vậy, nếu làm quá tay, thủy khí sẽ át hết hỏa khí, mộc khí, làm trôi hết may mắn, tài lộc trong nhà. Ngoài màu xanh dương tương ứng, những người mệnh Thủy còn thích hợp với những màu tối như tím, xám… Cổng cho gia chủ mệnh Thủy nên có màu xanh biển hoặc đen, kết hợp hoa văn uốn lượn mềm mại.Một số nguyên tắc khácNếu hướng nhà Đông Nam, bạn có thể sơn tường màu xanh lục nhạt; Tây Nam là vàng, nâu nhạt; Tây Bắc là trắng, bạc. Vị trí cổng mở, nếu nhìn từ bên trong nhà ra ngoài nên tránh bố trí thẳng với ngã ba, tránh dẫn lối trực xung với cửa chính của nhà vì sinh khí đi theo đường vòng, sát khí đi theo đường thẳng. Theo nguyên lý phong thủy, phòng khách nên đặt ở vị trí trung tâm của ngôi nhà vì đây là nơi tụ nhiều vượng khí nhất. Xây nhà theo mệnh gia chủ Nếu biết cách thiết kế nhà theo phong thủy, bạn có thể điều chỉnh không gian sống để tận hưởng cảm giác thanh bình... Đọc thêm »
Những điều kiêng kỵ khi chọn đất làm nhàChọn đất làm nhà phải rất chú ý kiên kỵ vì điều này liên quan đến những người sống trên mảnh đất đó.Người Trung Quốc xưa quan niệm:Nơi mà đông thấp tây cao thì phú, quý.Trước cao sau thấp môn hộ tuyệt diệt.Trước thấp sau cao trâu ngựa đầy đàn.Mặt đất bằng phẳng thì gọi là Lương thổ (đất Lương).Trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ (đất Tấn) ở thì gặp chuyện lành.Những điều kiêng kỵ khi chọn đất làm nhàTây cao mà đông thấp thì gọi là Lỗ thổ (đất Lỗ) ở thì phú quý, sẽ xuất người hiền.Trước cao mà sau thấp thì gọi là Sở thổ (đất Sở) ở thì gặp chuyện dữ.Bốn phía đều cao mà ở giữa thì thấp gọi là Vệ thổ (đất Vệ) ở thì trước giàu, sau nghèo khổ.Ngoài ra còn phải chú ý nhà ở không được làm ở cửa ngõ ra vào trên sườn núi hoặc thung lũng: như vậy tránh được lũ hoặc sét đánh. Nhà ở phải có bãi trống ở mặt nam: Nhà ở lưng quay về bắc, mặt quay về nam, thì mặt nam là nơi ra vào và hoạt động, có bãi trống rất tiện cho nghỉ ngơi, phơi phóng, vui chơi.Nhà ở không được làm trên giếng cũ. Giếng cũ thường là đất mới san lấp nên không chắc, rất dễ bị lún, đổ nhà. Giếng cũ có khi thoát địa khí hoặc rỉ nước mạch, bất lợi cho người ở. Xung quanh giếng cũ, nói chung ẩm ướt, người ở rất dễ bị phong thấp.Nhà ở không được làm ở ngã ba đường cái (chữ đinh) con đường đâm thẳng vào mặt tiền. Nhà ở chỗ ngã ba dễ bị tai họa bất chợt, xe hạy ban đêm, lái xe say rượu, bất cứ lúc nào cũng có thể đâm thẳng vào nhà. Những chuyện như vậy đã nhiều lần xảy ra. Ngoài ra, người ta đánh lộn cũng hay gây nguy hiểm cho những nhà kiểu này.Nhà ở không làm ở ngõ cụt: Ngõ cụt thì ra vào không thuận tiện, không lợi cho việc trai đổi tin tức và đi lại, sẽ dẫn đến tâm trạng cô độc và tâm lý hẹp hòi. Nếu có hỏa hoạn, không có đường chạy.Bên cạnh nhà ở có đền, miếu, thì không tốt. Đền, miếu tạo nên không khí u uẩn, lạnh lẽo, vắng vẻ đối với người ở. Nếu như ở đấy hương khói nhộn nhịp thì lại ồn ào, suốt ngày không có lúc được yên tĩnh. Có kẻ ra người vào, khó tránh được trộm cắp.Nhà ở nếu mặt nam có núi cao, thì nhà đó chắc chắn có người cuồng chữ. Trước cửa có núi che mất tầm nhìn. Gió bấc thổi vào núi rồi hồi chuyển vào nhà, không lợi cho sức khỏe.Trước cửa, sau nhà phải có đường cái. Quan niệm phong thủy cho rằng, phàm là đường đi mà có rẽ phải, rẽ trái, thì sát khí níu kéo, không liên quan đến lành dữ, nếu quá hẹp và thẳng đuột, nhà ở bị tù túng. Ở lâu trong ngõ cụt, con người sẽ cô độc, khổ sở, sẽ sa sút so với người ở ngõ dài. Ngõ không được chọc thẳng vào nhà, không được bên trong rộng bên ngoài hẹp, không được đoạn đầu to đoạn đuôi nhỏ.Cầu là công cụ để vượt qua dòng chảy. Trước nhà không nên có cầu chắn cửa. Cầu phải ở bên phương vượng của nhà ở. Cầu chặn trước cửa, thì nhà ở không an toàn. Phía tây nam nhà ở có ngã tư, thì nhà ấy phụ nữ tính tình cứng rắn. Đông bắc nhà có ngã tư, phụ nữ sinh đẻ bị ảnh hưởng. Bốn bên của nhà ở đều là đường cái, rơi vào chữ “tù”. Nhà đơn độc không có hàng xóm, thiếu sự giúp đỡ lẫn nhau và thiếu cảm giác an toàn, quần cư tốt hơn độc cư.Đường cái trước nhà hình cánh cung hoặc chữ S, làm ăn không khấm khá.Không được trồng dâu trước nhà. Theo “Sưu thần ký”: Có một người tên là Bão Viên, nhà nghèo lại hay ốm đau, bèn mời thuật sĩ đến xem bói. Thuật sĩ xem rằng xung quanh nhà ở có chuyện, vì phía đông bắc có một cáy dâu lớn. Trung Quốc kỵ trồng dâu trước nhà. Tục ngữ có câu: “Trước nhà không trồng dâu, sau nhà không trồng hòe”. Tang (dâu) trùng âm với tang (tang lễ). Cây dâu trước nhà, đọc lên có nghĩa trước cửa có đám tang, hung sát chủ trì chuyện chết chóc, khóc than v.v… cây cối quanh nhà được xem như xiêm áo, không có cây che chở, thì không thể bảo vệ sinh cơ. Thung lũng gió mạnh, không có cây che chở cũng không thể bảo vệ sinh cơ, không thể chống lại khí lạnh. Nơi thôn dã mà cây cối tươi tốt, tất nhà phát vượng: cây cối xơ xác, tất nhà suy bại. Cây cỏ tươi tốt sinh khí thịnh vượng, hộ ấm địa mạch, là phú quý hoàn cục. Như phía đông trồng đào, dương; nam trồng mai, táo; tây trồng thị, du; bắc trồng hạnh, lý sẽ đại cát lợi. Nếu như đồng hạnh, tây đào bắc táo, nam lý, trồng như vậy là thất nghi, sẽ có chuyện tà dâm. Người ta cho rằng phương Nhâm Tỵ Quý Sửu hợp với trồng dâu, trắc; phương Dần Giáp Mão Ất hợp với trồng tùng bách; phương Thân Canh dậu Tần, nên trồng thạch lựu; phương Tị Thìn Tốn hợp với rừng lớn; phương Tuất Càn Hợi hợp với rừng thấp.Ngoài ra, người ta còn kiêng trồng một số cây trước cửa nhà như sau:– Đào hạnh trước cửa nhà, trai gái rượu chè bừa bãi.– Cửa đối diện với cây thùy dương có người chết treo xà nhà.– Độc thụ (một cây) chặn cửa, mẹ góa con côi.– Cửa đối diện với giữa rừng cây, họa to bệnh nặng.– Hai cây song đôi trước cửa, súc vật ốm, người khỏe.– Cây một, trơ trụi, mẹ chồng con dâu bất hòa.– Cây to cổ quái, khí thống danh bại.– Rễ cây sưng phồng, đui điếc hôn mê.– Cây to góc tường, lắm chuyện kinh hoàng.– Bên trai có cây, bên phải không cây, lành ít dữ nhiều.– Cây bên phải ra hoa đỏ, nhan sắc làm tan cửa nát nhà.– Cây cong như bướu lạc đà, định tài đều giảm.– Cây khô trước cửa, cháy nhà chết người.– Cành cây bị dây leo quấn chặt, thắt cổ, đắm đò.– Cây khô nóc nhà, đàn bà chết chồng.– Cây to áp sát cửa, không có con gái, ít con trai.– Cây ăn quả chỉ tươi tốt nửa bên trái, ốm đủ thứ bệnh.– Cây ló r a phía ngoài, ắt bị tội đồ.– Ngọn cây nhúng nước, có người chết đuối.– Hai cây kèm hai bên nhà, chết người thân thuộc.– Cây như trâu nằm, dần sương lắm bệnh.– Cây tiêu thường xuyên ở trước cửa, góa phụ lênh đênh cơ khổ.– Trước cửa có cây chết, mất hết đường tiến thân.Theo quan niệm phong thủy, nước xung quanh nhà ở chia làm sáu loại:– Triều thủy, như sông chín khúa, như thủy triều.– Hoàn thủy, chảy vòng tròn như thắt lưng, như cánh cung.– Hoành thủy, như hình chữ nhất, dòng thắng.– Tà lưu thủy (chảy xiên).– Phản phi thủy (dội ngược lại).– Trực phi thủy (chảy tuột đi).Theo quan niệm của họ ba loại đầu chủ cát, ba loại sau chủ hung. theo luật phong thủy, nước xung quanh nhà ở có ảnh hưởng lành dữ đối với người.– Dòng nước gần nhà mà cắt trước cửa (cận thủy cát môn), thì người không yên ổn.– Dòng nước chảy thẳng vào trước cửa (thủy trực xung môn), chủ của mất người.Ngoài ra, có những cấm kỵ đối với rãnh nước, ao, hồ như sau:Rãnh (thủy câu) là rãnh ngầm thoát nước từ trong nhà ra ngoài, phải ngầm chứ không được lộ thiên. Đào rãnh thoát nước phải lựa thế đất, đào thường theo phương vị Tý vòng vèo dẫn ra thì khí không tản mát. Nếu chảy tuột đi, thì của cải không gom góp được. Mở cửa thải nước thì của cải tản đi không ở lại.Chỗ thoát nước ở chỗ đối diện với cửa, cũng không giữ được của.Nước ở hai bên, phú rất lâu bền. Hễ là hướng Bính Ngọ, rãnh nước phải từ bên phải Thiên tinh phía trước chảy vòng lại theo phương Tân; Thiên tỉnh giữa thì chảy vòng lại theo phương Canh Thiên tỉnh sau thì chảy vòng lại theo phương Càn.Nếu có vài nhà ở liền nhau, thì bên ngoài cửa được đào một rãnh ngang để thoát nước.– Ao, hào là nơi cấp thoát nước của nhà ở. Nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ chết yểu.– Nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán.– Ao to trước cửa, không thọ.– Ao to sau nhà, chết yểu từ nhỏ.Ngoài ra, ao trước thẳng và dài, ao sau hẹp và nhỏ, kẹp giữa ao trước và ao sau, ao to thôn tính ao nhỏ, ao trên lấn ao dưới, trong nhà có bể nước, giữa ao có thủy đình, trong ao có núi nhỏ, nước ao như bùn màu vàng, đều thuộc hung cách (xấu).– Ao trước nhà có góc nhọn chĩa vào cửa, dễ bị ốm đau.Giếng nước là dùng nước mạch ngầm dưới đất. Đào giếng, phải đào ở phương sinh vượng, kiêng phương quan sát. Trên phương vị địa chi thì không được. Hễ là phương Càn, Khảm, Sửu, dần, Thìn, Li, thân, đều không tốt. Hễ là phương Nhâm, Cấn, Tỵ, Tân thì có cát có hung về các mặt phát tài, quái tật, bị cướp, tuấn tú, quan cao, nhiều con.– Xây nhà cửa mà lấp nhiều giếng, rãnh thì khó bền. Những điều kiêng kỵ khi chọn đất làm nhà Chọn đất làm nhà phải rất chú ý kiên kỵ vì điều này liên quan đến những người sống trên mảnh đất đó... Đọc thêm »